Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
0978131213
khoasinhhoc@hpu2.edu.vn

Nơi gắn bó, trưởng thành và gửi trọn niềm tin yêu

Chưa bao giờ viết về mình, nhưng khi được các bạn đồng nghiệp trong khoa mời viết đôi điều tâm sự thì tôi cũng rất vui vẻ nhận lời. Thật sự từ đáy lòng mình, nhân dịp này tôi cũng muốn gửi lời tri ân tới các thế hệ thầy cô và có đôi điều tâm sự với các bạn trẻ trong khoa. Là một trong những sinh viên khóa đầu tiên của khoa, chúng tôi vẫn quen gọi là “Sinh 1”, nhưng là khóa 3 của Trường ĐHSP Hà Nội 2 (Khoa Sinh – KTNN nay là Khoa Sinh học bắt đầu tuyển sinh từ 1977 tương ứng khóa 3 của trường). Năm 1981, tôi tốt nghiệp ra trường và được giữ lại công tác tại khoa. Thời gian công tác liên tục của tôi tại khoa cho đến lúc nghỉ hưu là 39 năm (1981 – 2020). Trải qua một chặng đường dài học tập và công tác trên mảnh đất Xuân Hòa yêu thương đã để lại trong tôi nhiều kỉ niệm sâu sắc và cũng rất tự hào về mái trường mà mình đã được đào tạo và trưởng thành.

NGƯT. GVCC. PGS.TS. Đinh Thị Kim Nhung - Nguyên Bí thư Chi bộ, Nguyên Trưởng khoa Sinh học

Sau khi ra trường 4 năm, tôi được khoa cử đi học cao học khoá 1985 – 1987 của Trường ĐHSP Hà Nội. Với kết quả bảo vệ luận văn cao học xuất sắc, tôi đã được đề nghị chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh. Song, vì trong điều kiện của Khoa Sinh – KTNN lúc đó còn thiếu cán bộ nên tôi đã trở về khoa công tác. Tới năm 1992, tôi chính thức có Quyết định cử đi làm nghiên cứu sinh về chuyên ngành Vi sinh vật học, một chuyên ngành mà tôi rất yêu thích, đam mê từ khi còn học đại học. Nhờ sự nỗ lực học tập và say mê trong nghiên cứu khoa học của bản thân, tháng 3 năm 1996 tôi đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Sinh học, chuyên ngành Vi sinh vật học, trước thời hạn gần một năm. Để có được kết quả đó, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu của các thế hệ thầy cô đi trước, của đồng nghiệp và bạn bè, đặc biệt là sự cổ vũ, động viên của gia đình. Trong hoàn cảnh thời bao cấp, hai vợ chồng đều là giáo viên, hơn nữa, chúng tôi lúc đó đã có 2 con và gia đình cả 4 người đều đi học, cuộc sống quả là rất khó khăn. Đã có người nói đùa với chúng tôi: “cả nhà đi học thì lấy gì mà ăn”. Song với lòng yêu nghề, tôi đã luôn cố gắng vượt qua mọi khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và công tác, đồng thời động viên, tạo điều kiện cho chồng hoàn thành luận án Tiến sĩ Vật lí, năm 2000.

Trở về khoa công tác năm 1996, với trình độ và kiến thức chuyên môn đã được trang bị, tôi rất băn khoăn trăn trở rằng mình phải làm gì đây để đóng góp vào sự phát triển chung của Khoa và Nhà trường, không phụ lòng tin của các thầy cô, tập thể và bạn bè đồng nghiệp trong khoa. Về khoa, được phân công giảng dạy bộ môn Vi sinh vật học, công việc đầu tiên mà tôi thấy cần phải làm là bắt tay ngay vào việc xây dựng phòng thí nghiệm vi sinh (trong điều kiện cơ sở vật chất của phòng thí nghiệm lúc đó còn rất nghèo nàn) để làm sao cho phòng thí nghiệm vi sinh xứng tầm với một phòng thí nghiệm ở đại học, nghĩa là phòng thí nghiệm không chỉ đơn thuần phục vụ việc thí nghiệm thực hành của sinh viên mà còn cả việc nghiên cứu khoa học của cán bộ và sinh viên. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo của khoa. Với nhiệt huyết của bản thân, đồng thời được sự quan tâm giúp đỡ của nhà trường, phòng thí nghiệm vi sinh từng bước được nâng cấp và về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học, là nơi vừa thực hiện nhiệm vụ giảng dạy thực hành bộ môn, vừa thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên và cán bộ trong khoa. Chính nhờ có phòng thí nghiệm mà các đề tài cấp Bộ, đề tài nhánh cấp Nhà nước được thực hiện với sự tham gia của sinh viên và các học viên cao học. Qua việc triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học đã giúp khoa tăng cường mối liên kết đào tạo với các viện, các trường đại học như: Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Bỏng Quốc gia, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội,… Đặc biệt năm 2015, từ kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ trọng điểm Nghiên cứu thu nhận màng xellulo từ vi khuẩn Acetobacter và ứng dụng trị bỏng, tôi đã thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ tạo màng sinh học Acetobacter cho Xí nghiệp Dược Hậu Giang.

Trong nghiên cứu khoa học, dù điều kiện thực nghiệm khó khăn, bằng sự nỗ lực liên tục, tôi đã hoàn thành 6 đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Bộ và 1 đề tài nhánh cấp Nhà nước, các đề tài đều được ứng dụng vào thực tiễn. Với việc liên tục thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã có 76 công trình khoa học được công bố. Trong Cuộc thi công trình nghiên cứu khoa học chào mừng nghìn năm Thăng Long Hà Nội, công trình dự thi của tôi đã được nhận giải nhất, góp thêm niềm vinh dự cho khoa và nhà trường. Nhờ sự nỗ lực của bản thân trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy, năm 2007 tôi đã được công nhận chức danh Phó Giáo sư.

Kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học nhằm biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo là một trong những giải pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng đào tạo của khoa. Để thực hiện được điều đó, bên cạnh làm tốt nhiệm vụ giảng dạy, tôi đã thường xuyên hướng dẫn sinh viên, học viên cao học tham gia thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học do tôi chủ trì. Kết quả đã có 14 công trình với 27 em đạt giải sinh viên nghiên cứu khoa học và giải thưởng VIFOTEX của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nay gọi là giải thưởng Tài năng trẻ. Qua nghiên cứu khoa học đã tạo thêm động lực, niềm say mê học tập cho sinh viên, rèn cho sinh viên tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc. Từ đó chất lượng đào tạo của khoa được nâng cao. Chính vì thế, các sinh viên được đào tạo ở khoa khi ra trường đã đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội và ngành Giáo dục, nhiều bạn đã đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi ở các địa phương, góp phần tạo nên thương hiệu đào tạo của khoa và nhà trường.

Bên cạnh công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tôi còn tích cực động viên cán bộ giảng dạy trong khoa tham gia biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập của sinh viên và học viên cao học. Khi làm Trưởng khoa, tôi đã hợp tác với một số tác giả là chuyên gia ở một số viện nghiên cứu và trường đại học để thiết lập các nhóm viết sách: Từ điển Sinh học, sách chuyên khảo cho hệ đại học và cao học. Trong đó bộ sách Cơ sở khoa học trong công nghệ bảo vệ môi trường (4 tập, tôi là đồng tác giả) đã được tặng Huy chương Đồng – Giải sách hay của Hội Xuất bản Việt Nam năm 2010.

Có thể nói, chặng đường gần 50 năm xây dựng và phát triển của khoa đã gắn bó mật thiết với sự trưởng thành của nhiều thế hệ các thầy cô giáo, học trò trong đó có tôi. Gần nửa thế kỷ gắn bó với Khoa và Nhà trường trong tôi luôn dâng trào niềm xúc động mạnh mẽ về ngôi nhà Khoa Sinh học, về mái trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 thân yêu, về hình ảnh các thầy cô kính yêu cùng các học trò trong các giờ lên lớp, buổi thực hành, các ngày đi lao động ngoài trại thực hành Đồng Quỳ và tại vườn thực hành Khoa Sinh học, những buổi dạ hội sinh học, đi thực tế thiên nhiên,… Với tôi gần như cả cuộc đời đã gắn liền với sự nghiệp đào tạo của khoa. Tôi không chỉ tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học mà còn đảm nhận một số trọng trách trong khoa như: Phó Trưởng khoa, rồi Trưởng khoa, Chủ tịch Công đoàn khoa, Bí thư Chi bộ,... Ở cương vị công tác nào tôi cũng luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần đưa Khoa Sinh học ngày càng phát triển, trở thành một trong những khoa vững mạnh toàn diện trong trường, có uy tín trong đào tạo với xã hội. Có được kết quả như ngày hôm nay, tôi đã nhận được sự ủng hộ giúp đỡ của các thế hệ thầy cô như: thầy Nguyễn Văn Thiết, cố Trưởng khoa Khoa Sinh – KTNN đầu tiên, Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội 2; thầy Nguyễn Văn Mã, nguyên Hiệu trưởng Nhà trường; thầy Phạm Văn Năng, cố Trưởng khoa;… cùng tập thể cán bộ và bạn bè đồng nghiệp trong khoa. May mắn hơn nữa với tôi là được sống trong ngôi nhà Khoa Sinh học ấm áp tình người, tình đồng nghiệp và tình thầy trò. Điều này đã tạo động lực lớn cho tôi trong cuộc sống. Nhân dịp này, tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã giảng dạy và giúp đỡ tôi từng bước trưởng thành trong quá trình học tập và công tác tại khoa, cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp trong khoa đã luôn đồng hành, động viên và cổ vũ tôi khắc phục mọi khó khăn để phấn đấu vươn lên.

Từ thực tế bản thân, tôi nhận thức sâu sắc rằng: Trong sự trưởng thành của mỗi cá nhân, bên cạnh sự nỗ lực, phấn đấu bền bỉ của mỗi người, rất cần có sự ủng hộ, giúp đỡ của các thầy cô giáo, tập thể cán bộ, sinh viên trong khoa, đồng thời cũng cần phải có thêm sự kết hợp hài hoà giữa công việc của tập thể và gia đình. Bản thân mỗi người phải luôn luôn chủ động trong mọi công việc, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, “nói đi đôi với làm”. Hơn nữa, để đạt được kết quả cao trong công việc, điều rất quan trọng là tập thể phải có sự đoàn kết nhất trí cao, biết tạo động lực cho nhau để cùng phát triển. Đặc biệt, cần sử dụng đúng người, đúng việc, phát huy tối đa thế mạnh của mỗi thành viên. Như vậy sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp của tập thể để xây dựng khoa phát triển vững mạnh về mọi mặt. Đó cũng chính là bí quyết giúp tôi trưởng thành từ mái nhà Khoa Sinh học, Trường ĐHSP Hà Nội 2 thân yêu. Nhờ sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của bản thân, năm 2012 tôi đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. Tôi thiết nghĩ đây cũng là vinh dự chung của tập thể Khoa Sinh học.

Theo tôi, phần thưởng cao quý nhất là các kết quả đào tạo của Khoa và Nhà trường cho ngành Giáo dục Việt Nam. Trong số các sinh viên của khoa tốt nghiệp ra trường có những em đến nay đã được nhận danh hiệu giảng viên cao cấp, phó giáo sư, tiến sĩ như: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Liên (K15); PGS.TS. Nguyễn Xuân Thành (K23), hiện nay đang là Trưởng khoa Sinh học; TS. Cao Bá Cường (K27), hiện nay đang là Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội 2; một số em không chỉ tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học mà còn tham gia đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm có ích cho xã hội như PGS.TS. La Việt Hồng (K30), hiện nay là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học và Ứng dụng của trường. Còn rất nhiều đồng nghiệp, các bạn sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường về công tác trên khắp mọi vùng miền của đất nước đã có nhiều thành tích đóng góp cho ngành Giáo dục. Một số bạn đã đạt danh hiệu Nhà giáo Ưu tú như bạn Nguyễn Văn Quý (K3) và Đinh Thị Kim Phương (K7), Nguyễn Lệ Chung (K11),... ; nhiều bạn không chỉ là giáo viên dạy giỏi và còn đảm nhận các cương vị khác nhau như Phó Giám đốc Sở, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường phổ thông mà chúng tôi chưa biết hết vì chưa có điều kiện thống kê đầy đủ. Có thể nói, Khoa Sinh học đã có đóng góp đáng kể vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Đó vừa là trách nhiệm, đồng thời cũng vừa là niềm tự hào chung của chúng ta về khoa và về nghề dạy học, nghề mà như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng sinh thời đã nói: “nghề cao quý‎‎‎ nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo”.

Trong những ngày thầy và trò trong khoa chúng ta đang tích cực chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 58 năm thành lập Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và 50 năm đào tạo tại Xuân Hòa, chúng tôi luôn tin tưởng và hy vọng vào đội ngũ cán bộ trẻ với tầm nhìn xa, luôn đoàn kết, hội nhập, sáng tạo, phát huy những truyền thống tốt đẹp của khoa đã được bao thế hệ thầy cô dày công vui đắp sẽ kế tục xứng đáng sự nghiệp đào tạo và “trồng người” của khoa. Nhân dịp này, tôi xin kính chúc các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp, các bạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh đã và đang công tác tại khoa có nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Chúc Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ngày càng phát triển, góp phần to lớn vào công cuộc “đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo của đất nước” trong thời kỳ mới.

Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2025

NGƯT. GVCC. PGS.TS. Đinh Thị Kim Nhung

Nguyên Bí thư Chi bộ

                                                      Nguyên Trưởng khoa Sinh học



Tags:


Bài viết khác

0978131213